Mẫu dĩ Tử quý Từ Hòa Hoàng thái hậu

Năm Thuận Trị thứ 10 (1653), Đông thị nhập cung, khi đó bà giữ danh hiệu Thứ phi, cư ngụ Cảnh Nhân cung và được đãi ngộ cấp Phúc tấn. Năm Thuận Trị thứ 11 (1654), tháng 3, bà sinh Tam hoàng tử Huyền Diệp. Năm thứ 18 (1661), ngày 7 tháng 1 (tức ngày 5 tháng 2 dương lịch), Thuận Trị Đế băng hà, con trai bà là Hoàng tam tử Huyền Diệp được chọn làm Hoàng thái tử kế vị. Sử gọi ông là [Khang Hi Đế], khi đó 8 tuổi.

Trong thời gian này, Hoàng hậu của Thuận Trị Đế là Bát Nhĩ Tế Cẩm thị được tôn [Mẫu hậu Hoàng hậu; 母后皇后], còn Phi Đông thị được tôn gọi bằng [Mẫu hậu; 母后]. Năm Khang Hi nguyên niên (1662), ngày 3 tháng 10, Khang Hi Đế tôn bà là Từ Hòa Hoàng thái hậu (慈和皇太后)[3].

Sách tôn viết:

德弘祚胤、启万年显世之符。礼重徽称、合四海尊亲之戴。喜谐禁籞。庆溢寰区。钦惟母后、仁承乾始。道合坤贞。秉淑范而襄内治、化洽宫庭。诞眇躬而缵鸿图、恩深顾复。仰慈仁之备至、宜尊养之兼隆。载考彝章、晋崇鸿号。谨告天地、宗庙、社稷。率诸王、贝勒、文武群臣、恭奉册宝、上徽号曰、慈和皇太后。伏愿嘉祥骈集、茂祉愈增。昭令闻而卜世卜年、迓休徵而弥昌弥炽。宝文曰、慈和皇太后之宝。

...

Đức hoằng tộ dận, khải vạn niên hiển thế chi phù. Lễ trọng huy xưng, hợp tứ hải tôn thân chi đái. Hỉ hài cấm 籞. Khánh dật hoàn khu.

Khâm duy Mẫu hậu, nhân thừa càn thủy. Đạo hợp khôn trinh. Bỉnh thục phạm nhi tương nội trị, hóa hiệp cung đình. Đản miễu cung nhi toản hồng đồ, ân thâm cố phục. Ngưỡng từ nhân chi bị chí, nghi tôn dưỡng chi kiêm long. Tái khảo di chương, tấn sùng hồng hào.

Cẩn cáo Thiên địa, Tông miếu, Xã tắc, suất chư vương, bối lặc, văn võ quần thần, cung phụng sách bảo, thượng huy hào viết Từ Hòa Hoàng thái hậu.

Phục nguyện gia tường biền tập, mậu chỉ dũ tăng. Chiêu lệnh văn nhi bặc thế bặc niên, nhạ hưu trưng nhi di xương di sí. Bảo văn viết, Từ Hòa hoàng thái hậu chi bảo.

— Sách tôn Từ Hòa Hoàng thái hậu

Năm Khang Hi thứ 2 (1663), ngày 11 tháng 2 (âm lịch), Từ Hòa Hoàng thái hậu mất do một căn bệnh lạ, tuy nhiên hoàn cảnh cái chết của bà còn chứa nhiều uẩn khúc[4], chung niên 24 tuổi. Tháng 5, bà được tôn thụy hiệuHiếu Khang Từ Hòa Trang Ý Cung Huệ Sùng Thiên Dục Thánh Hoàng hậu (孝康慈和莊懿恭惠崇天育聖皇后).

Sách văn thụy viết rằng:

Hiếu Khang Hoàng hậu triều phục

慈恩罔极、报莫殚夫追崇。厚德难名、号宜尊乎显懿。用表无前之美、以彰不匮之思。中外咸孚。典仪惟备。钦惟皇妣大行慈和皇太后、淑慎柔嘉。温恭慈惠。饬躬静好、流蔼吉之徽音。逮下雍和、著肃雝之雅化。内承皇考、匡赞惟勤。上奉重闱、虔恭匪懈。眇躬缵绪、方期申尊养之忱。鸾驭升遐、遽永结终天之慕。仰惟盛德、宜荐鸿名。载考旧章。博咨公议。谨奉册宝、上尊谥曰、孝康慈和庄懿恭惠崇天育圣皇后。伏惟慈灵昭格。彝典懋膺。益弘佑启之仁、永衍邦家之庆。宝文曰、孝康慈和庄懿恭惠崇天育圣皇后之宝

.

.

.

Từ ân võng cực, báo mạc đàn phu truy sùng. Hậu đức nan danh, hào nghi tôn hồ hiển ý. Dụng biểu vô tiền chi mỹ, dĩ chương bất quỹ chi tư. Trung ngoại hàm phu. Điển nghi duy bị.

Khâm duy Hoàng tỉ Đại hành Từ Hòa Hoàng thái hậu, thục thận nhu gia. Ôn cung từ huệ. Sức cung tĩnh hảo, lưu ái cát chi huy âm. Đãi hạ ung hòa, trứ túc ung chi nhã hóa. Nội thừa Hoàng khảo, khuông tán duy cần. Thượng phụng trọng vi, kiền cung phỉ giải. Miễu cung toản tự, phương kỳ thân tôn dưỡng chi thầm. Loan ngự thăng hà, cự vĩnh kết chung thiên chi mộ. Ngưỡng duy thịnh đức, nghi tiến hồng danh. Tái khảo cựu chương. Bác tư công nghị.

Cẩn phụng sách bảo, thượng tôn thụy viết, Hiếu Khang Từ Hòa Trang Ý Cung Huệ Sùng Thiên Dục Thánh Hoàng hậu.

Phục duy từ linh chiêu cách. Di điển mậu ưng. Ích hoằng hữu khải chi nhân, vĩnh diễn bang gia chi khánh. Bảo văn viết, Hiếu Khang Từ Hòa Trang Ý Cung Huệ Sùng Thiên Dục Thánh Hoàng hậu chi bảo.

— Sách thụy văn Hiếu Khang hoàng hậu[5]

Ngày 6 tháng 6 (âm lịch) cùng năm, Hiếu Khang Hoàng hậu được an táng vào Hiếu lăng (孝陵). Năm Khang Hi thứ 9 (1670), tháng 2, Nghị Chính vương đại thần tâu rằng lấy lệ của Hiếu Từ Cao Hoàng hậu cùng Hiếu Đoan Văn Hoàng hậu nên tôn Đế thụy cho Hiếu Khang Hoàng hậu, gọi là [Chương Hoàng hậu][6]. Cùng năm tháng 5, thăng phụng Thái Miếu[7]. Chiếu cáo thiên hạ[8].

Về sau Ung Chính, Càn Long dâng thêm huy hiệu, do vậy thụy hiệu đầy đủ là Hiếu Khang Từ Hòa Trang Ý Cung Huệ Ôn Mục Đoan Tĩnh Sùng Văn Dục Thánh Chương Hoàng hậu (孝康慈和莊懿恭惠溫穆端靖崇文育聖章皇后).